1/15/2013

Người bị viêm gan siêu vi C có thể sinh hoạt tình dục không?


Người bị viêm gan siêu vi C có thể sinh hoạt tình dục không?

Nguy cơ lây truyền siêu vi C qua đường tình dục rất thấp. Tuy nhiên, người bệnh cần áp dụng các biện pháp tự bảo vệ để phòng trường hợp có khả năng tiếp xúc với máu như dùng bao cao su nếu người nữ bị nhiễm siêu vi C và đang trong thời kỳ kinh nguyệt, nhiễm trùng sinh dục (ví dụ: Bệnh Herpes), tổn thương vùng cơ quan sinh dục…



Ngoài các trường hợp trên, nếu hai người là bạn tình chung thủy thì có thể không cần dùng bao cao su khi quan hệ tình dục. Trong trường hợp khô âm đạo, việc sử dụng thuốc bôi trơn kết hợp với bao cao su sẽ giúp phòng tránh lây nhiễm.

Trong trường hợp có nhiều bạn tình, việc sử dụng bao cao su được khuyến cáo nhằm tự bảo vệ khỏi các bệnh truyền nhiễm khác như viêm gan siêu vi B, AIDS, các bệnh lây qua đường tình dục…

Xem thêm: bệnh viêm gan siêu vi B| bệnh viêm gan A| chán ăn| benh sieu vi gan B| dấu hiệu bệnh viêm gan A| viêm gan B là gì

1/14/2013

Thuốc uống ức chế bệnh viêm gan siêu vi C

Thuốc uống ức chế bệnh viêm gan siêu vi C

Mình có một người bạn chơi rất thân nhưng chẳng may bạn ấy đang mắc căn bệnh viêm gan siêu vi C. Bác sĩ khuyên bạn ấy nên đến các trung tâm y tế hoặc các phòng khám y tế để chẩn đoán và chữa trị. Bác sĩ nói bạn phải tiêm thuốc mỗi tháng 1 lần, trong 12 tháng. Nhưng gia đình bạn ấy đang gặp rất nhiều khó khăn về mặt kinh tế. Mình muốn các bạn tư vấn cho mình biết lạo thuốc uống trị hết hoặc ức chế được bệnh viem gan B hoặc viêm gan siêu vi C không?
Trả lời:
Ngày 13 tháng 5 năm 2011 cơ quan quản lý thuốc và thực phẩm Mỹ (FDA) đã phê duyệt Victrelis (Boceprevir) cho điều trị viêm gan siêu vi c mạn tính. Victrelis là một chất ức chế men protease, hoạt động của nó là gắn với virus và ngăn ngừa sự nhân lên của virus. Victrelis là thuốc kháng virus trực tiếp chống virus viêm gan C đầu tiên được FDA phê duyệt.

Victrelis kết hợp với peginterferon alfa và ribavirin để điều trị cho những bệnh nhân viêm gan siêu vi C mạn tính :

-  Lớn hơn 18 tuổi

-  Nhiễm virus viêm gan C genotype 1

- Có bệnh gan còn bù , kể cả xơ gan còn bù

- Bệnh nhân trước đó chưa điều trị hoặc đã điều trị với interferon và ribavirin nhưng thất bại.

Xem thêm: bệnh viêm gan siêu vi B| hoàng đản| chán ăn| bệnh viêm gan A

1/12/2013

Lây nhiễm viêm gan siêu vi C bằng cách nào


Lây nhiễm viêm gan siêu vi C bằng cách nào

-   Viêm gan siêu vi C được lây truyền chủ yếu qua đường máu. Do vậy, vì bất cứ lý do gì mà chúng ta tiếp xúc với máu của những người bị nhiễm siêu vi C thì đều có khả năng mắc bệnh này.
-   Khoảng 10 năm trước đây, những trường hợp nhiễm bệnh do truyền máu chiếm 10%. Hiện nay, nhờ có các phương thức để tầm soát siêu vi C ở những người cho máu, cho nên nguy cơ lây nhiễm sau truyền máu đã giảm đi đáng kể, chỉ còn vào khoảng 0,5% ở các nước phát triển. Ở nước ta hiện nay, tại các bệnh viện và các trung tâm y tế lớn, người ta đã đặc biệt chú ý đến việc tìm và loại bỏ các máu bị nhiễm siêu vi C, HIV...
-   Đường truyền bệnh khá quan trọng hiện nay là qua việc dùng chung kim và ống chích. Có khoảng 60-90% những người chích xì ke sẽ bị nhiễm siêu vi C.Ngay cả khi dùng kim và ống chích riêng, những người chích xì ke vẫn có thể bị nhiễm bệnh là do họ vẫn dùng chung các vật dụng để chuẩn bị cho mũi chích như muỗng, màng lọc... Ở những người hít cocain mà không chích xì ke vẫn có nguy cơ bị lây nhiễm siêu vi C do việc chia xẻ các mẫu thuốc hít và do họ thường bị những vết trầy sướt hay loét ở niêm mạc mũi.

Xem thêm: bệnh viêm gan siêu vi B| benh sieu vi gan B| chán ăn| hoang dan

1/11/2013

Hướng dẫn điều trị viêm gan siêu vi C

Hướng dẫn điều trị viêm gan siêu vi C

1. Quyết định điều trị tùy thuộc vào từng trường hợp cụ thể, dựa vào độ nặng của bệnh gan, tiềm năng xuất hiện các tác dụng phụ nguy hiểm, khả năng đáp ứng với điều trị, các bệnh đi kèm, cũng như sự chấp thuận điều trị của bệnh nhân.

2. Những bệnh nhân có sinh thiết gan,chỉ định điều trị khi có xơ hóa cầu nối hay xơ gan còn bù với điều kiện những bệnh nhân này không có chống chỉ định điều trị.

3. HCV-RNA định lượng với phương pháp có độ nhạy cao nên thực hiện vào lúc bắt đầu điều trị hay thời gian ngắn trước điều trị và vào tuần thứ 4,8 và 12.

Bệnh viêm gan siêu vi C genotype 1:

5. Điều trị tối ưu là dùng Boceprevir hoặc Telaprevir phối hợp với PegInterferon (PegIFN) α và Ribavirin (RBV). Liều dùng PegIFN α-2a là 180mcg/TDD/tuần, cộng với RBV 1000mg/ngày đối với bệnh nhân ≤  75kg và 1200mg đối với bệnh nhân ˃75kg. Liều dùng của PegIFN α-2b là 1,5mcg/TDD/tuần, cộng với 800mg/ngày đối với bệnh nhân ˂ 65kg, 1000mg/ngày đối với bệnh nhân ˃ 65kg đến 85kg, 1200mg đối với bệnh nhân ˃ 85kg đến 105kg và 1400mg/ngày đối với bệnh nhân ˃105kg.

6. Bệnh nhân có xơ gan nên điều trị với Boceprevir hay Telaprevir phối hợp với PegIFN và RBV 48 tuần.

Bệnh viêm gan siêu vi C genotypes 2 hoặc 3:

7. Điều trị bằng PegIFN và RBV nên kéo dài 24 tuần với liều RBV 800mg/ngày, liều PegIFN và RBV như trên.

8. Bệnh nhân đã được điều trị 24 tuần, định lượng HCV-RNA với phương có độ nhạy cao âm tính, nên làm lại 24 tuần sau khi ngưng thuốc để đánh giá SVR (đáp ứng siêu vi lâu dài).

9. Ở bệnh nhân xơ gan dù đạt được SVR, bất kỳ genotype nào cũng nên theo dõi mỗi 6-12 tháng để phát hiện HCC.

Bệnh viêm gan siêu vi C genotypes 4:

10. Điều trị bằng PegIFN cộng với RBV kéo dài 48 tuần.

11. Có thể ngưng điều trị ở bệnh nhân không đạt được đáp ứng siêu vi sớm (EVR), đáp ứng siêu vi sớm được xác định bằng nồng độ HCV-RNA giảm ≥ 2 log vào tuần thứ 12).

12. Bệnh nhân không đạt được EVR hoàn toàn (không phát hiện HCV-RNA vào tuần thứ 12) nên tái đánh giá vào tuần 24, nếu HCV-RNA vẫn còn dương tính nên ngưng điều trị.

Thất bại điều trị đối với HCV genotype 2-4:

13. Tái điều trị không được khuyến cáo khi bệnh nhân không đạt được SVR  mà trước đó đã được điều trị với PegIFN và RBV.

14. Tái điều trị bằng PegIFN và RBV cần xem xét đối với bệnh nhân không đáp ứng hay tái phát với phác đồ điều trị trước đây không có PegIFN, phối hợp hay không phối hợp RBV, hay chỉ PegIFN đơn trị liệu, đặc biệt ở bệnh nhân có xơ hóa cầu nối hoặc xơ gan.

15. Điều trị duy trì không được khuyến cáo ở bệnh nhân xơ hóa cầu nối hay xơ gan mà đã thất bại với phác đồ điều trị PegIFN và RBV trước đó.